Địa lý Hữu_Lũng

Huyện Hữu Lũng nằm ở phía tây nam tỉnh Lạng Sơn, có vị trí địa lý:

Huyện Hữu Lũng có diện tích 806,74km², dân số năm 2019 là 121.735 người. Huyện lỵ là thị trấn Hữu Lũng nằm trên tỉnh lộ 340B, cách thành phố Lạng Sơn 75km về hướng tây nam, tỉnh lộ 244 theo hướng tây bắc đi huyện Võ Nhai (Thái Nguyên) và tỉnh lộ 242 theo hướng tây nam đi huyện Yên Thế, tỉnh ,Bắc Giang.

Hữu Lũng là huyện miền núi nằm ở phía Nam của thành phố Lạng Sơn, cách thành phố 80 km, thuộc dải đất nối liền vùng trung du và vùng đồng bằng Bắc bộ nước ta. Phía Đông giáp 2 huyện Chi Lăng và Bắc Sơn, phía Tây giáp Võ Nhai (tỉnh Thái Nguyên), phía Tây - Nam và Đông Nam giáp huyện Lục Ngạn, Lạng Giang, Lục Nam, Yên Thế của tỉnh Bắc Giang.

Địa hình gồm ba vùng: vùng núi đá chạy từ Đông - Bắc xuống Đông - Nam, vùng núi đất thuộc các xã phía Đông Nam và Tây Nam, vùng thung lũng ruộng đồng bao gồm các xã chạy dọc quốc lộ 1A.

Khí hậu trên địa bàn huyện thuộc tiểu vùng khí hậu núi thấp phía Nam. Có nền nhiệt độ trung bình hàng năm 22,7 °C, lượng mưa lớn bình quân hàng năm từ 1.500 - 2.000 mm, độ ẩm cao 83%.

Tổng diện tích đất tự nhiên trên địa bàn huyện là 806,74km², chủ yếu là đồi núi thấp, trong đó: diện tích đồi núi đá có: 33.056 ha, chiếm 41,9% diên tích đất tự nhiên; diện tích đồi núi đất 45.223 ha, chiếm 57,3%. Đất trên địa bàn huyện có bốn loại đất chính: đất đỏ vàng trên đá sét (Fs) 18.691 ha, đất vàng nhạt trên đá cát (Fq) 9.021 ha, đất vàng đỏ trên đá mácm axit (Fa) 7.080 ha, đất đỏ nâu trên đá vôi (Fv) 4.350 ha.

Theo số liệu năm 2000 tổng diện tích đất đang sử dụng của huyện là 43.760 ha, chiếm 55,4% diện tích đất tự nhiên. Trong đó đất nông nghiệp 14.310 ha, chiếm 32,7% diện tích đất đang sử dụng, đất lâm nghiệp 25.940 ha, chiếm 59,3%, đất ở 700 ha. Diện tích đất chưa sử dụng là 35.166 ha, trong đó đất có khả năng sử dụng phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp là 12.689 ha.

Hệ thống sông, suối của huyện khá phong phú; Chi lưu sông Thương phát nguồn từ dãy núi Na Pa Phước, cao 600m bắt đầu chảy từ chân đèo Nả Tần. Từ Làng Nác trở đi sông chảy giữa hai dãy núi, bên Hữu có dãy núi Cai Kinh, bên Tả có dãy núi Bảo Đài rồi chảy vào địa hạt tỉnh Bắc Giang.

Sông Thương chảy qua địa phận huyện Hữu Lũng có 02 nhánh lớn là sông Hóasông Róng (nay gọi là sông Trung) và nhiều suối đổ vào sông.

I. HỮU NGẠN SÔNG THƯƠNG:

1- Suối Tiên Hồ, phát nguyên từ núi Tiên Hồ

2- Suối Mỏ Phiếu, phát nguyên từ đèo Loi, đến đèo Mỏ Phiếu thì chảy ngầm sau đó chảy theo dãy núi Cai Kinh ra sông Thương.

3- Sông Róng (sông Trung): Từ Thái Nguyên chảy qua núi đá thuộc vòng cung Bắc Sơn đến Na Hoa thì đổ vào sông Thương

Sông Róng (sông Trung) có các suối đổ vào:

a- Suối Luộc chảy trong lòng hầm đất đến làng Nỷ thì đổ vào sông

b- Suối Đầu Rồng: Chảy ngầm qua đèo Váo

c- Suối Thục

d- Suối Làng Hét

4- Suối Tung

5- Suối Rùa

6- Suối Ngao

II. TẢ NGẠN SÔNG THƯƠNG:

1- Sông Hóa phát nguyên vùng núi Khuổi Ma, cao 475m

2- Suối Nghè

3- Suối Ken

4- Suối Thổ

5- Suối Vị

6- Suối Minh

7- Suối Ngạn

Tài nguyên khoáng sản trên địa bàn huyện gồm có đá vôi với hàm lượng CaO = 55%, trữ lượng khoảng 14 triệu tấn; có đất sét trữ lượng khoảng 9,8 triệu tấn, là những nguyên liệu chủ yếu sản xuất xi măng. Ngoài ra, trên địa bàn huyện còn có nguồn cát, sỏi được phân bổ ở các xã ven đường quố lộ 1A là nguồn nguyên liệu để phát triển ngành sản xuất vật liệu xây dựng của huyên và tỉnh.

Theo số liệu năm 2000, dân số trên địa bàn huyện có 108.527 người, tỷ lệ tăng dân số trung bình hàng năm 1,12%, trong đó: lao động trong độ tuổi là 49.967 người, chiếm 46% dân số. Mật độ dân cư ở vùng thấp là 200 - 300 người/km² và ở vùng đồi núi là 40 - 60 người/km².

Trên địa bàn huyện, số lao động qua đào tạo chiếm tỷ lệ rất thấp 8%, lao động chưa có việc làm chiếm 9,2%. Số lao động ở thành thị chiếm 12% tổng số lao động trong độ tuổi. Lao động hoạt động trong ngành nông lâm nghiệp là 37.562 người, chiếm 75%; thương mại dịch vụ 7.145 người, chiếm 14,3%.